Phép biện chứng cổ đại là gì
hãy cùng thpt soc moon tìm hiểu khái niệm phép biện chứng, các hình thức phát triển của phép biện chứng trong lịch sử, những đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại,…
Phép biện chứng và phép biện chứng
Theo nghĩa Mác – Lê-nin, khái niệm phép biện chứng dùng để chỉ những mối liên hệ, tác động qua lại, biến đổi và vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã hội và tư tưởng.
phép biện chứng bao gồm phép biện chứng khách quan và phép biện chứng chủ quan. Phép biện chứng khách quan là phép biện chứng của thế giới vật chất, còn phép biện chứng chủ quan là sự phản ánh phép biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người.
theo Ăng-ghen: “cái gọi là phép biện chứng khách quan thống trị toàn bộ giới tự nhiên, còn cái gọi là phép biện chứng chủ quan, tức là biện chứng tư tưởng, chỉ là sự phản ánh thống trị, xuyên suốt tự nhiên …”.
Phép biện chứng là lý luận nghiên cứu khái quát phép biện chứng của thế giới thành một hệ thống các quy luật và nguyên lý khoa học nhằm xây dựng một hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận của nhận thức và thực tiễn. Theo nghĩa này, phép biện chứng thuộc về phép biện chứng chủ quan, đồng thời cũng đối lập với phép siêu hình, một phương pháp tư duy về các sự vật, hiện tượng trong thế giới ở trạng thái cô lập và bất biến.
Phép biện chứng cổ đại là gì?
phép biện chứng đã phát triển qua ba hình thức, ba cấp độ cơ bản: phép biện chứng sơ khai của thời cổ đại (gọi là phép biện chứng cổ đại), phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức và phép biện chứng cổ điển, duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.
>
Phép biện chứng đơn giản của thời cổ đại là hình thức đầu tiên của phép biện chứng. nó là một nội dung cơ bản trong nhiều hệ thống triết học cổ đại của Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. những tư tưởng tiêu biểu về phép biện chứng của triết học Trung Quốc là “thuyết biến hóa” (thuyết về những nguyên lý phổ biến và quy luật biến đổi của vũ trụ) và “thuyết ngũ hành” (thuyết về những nguyên lý biến đổi của vũ trụ). . vũ trụ) của âm dương gia. trong triết học Ấn Độ, biểu hiện rõ nhất của tư tưởng biện chứng là triết học của Phật giáo, với các phạm trù “vô ngã”, “vô thường”, “nhân và duyên”. đặc biệt, triết học Hy Lạp cổ đại đã thể hiện một cách sâu sắc tinh thần của phép biện chứng tự phát. ph. Ph.Ăngghen viết: “Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đều là những nhà biện chứng bẩm sinh và tự phát, còn Aristotle, bộ óc bách khoa toàn thư nhất của mọi người, cũng đã nghiên cứu những hình thức cơ bản của thế giới quan đầu tiên, tuy ngây thơ nhưng về cơ bản là đúng đắn, là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. và lần đầu tiên nó được Heraclitus trình bày một cách rõ ràng, rõ ràng: mọi thứ tồn tại đồng thời không tồn tại, bởi vì mọi thứ đều trôi qua, mọi thứ không ngừng thay đổi, mọi thứ không ngừng sinh ra và biến mất. ”’.
Tuy nhiên, những tư tưởng biện chứng đó về cơ bản vẫn còn ngây thơ và chất phác. ph. engels nhận xét: “Trong triết học này, tư tưởng biện chứng xuất hiện với sự đơn giản tự nhiên, không bị quấy rầy bởi những chướng ngại vật đẹp đẽ… chính vì người Hy Lạp chưa đến giai đoạn mổ xẻ, phân tích và tích hợp thế giới tự nhiên nên họ vẫn nghĩ đến thế giới tự nhiên nói chung và coi nó như một tổng thể. Mối liên hệ chung giữa các hiện tượng tự nhiên vẫn chưa được chứng minh cụ thể: đối với họ, mối liên hệ là kết quả của việc quan sát trực tiếp. phép biện chứng đơn giản cũ đã nhận thức đúng phép biện chứng của thế giới, nhưng bằng trực giác sáng suốt, bằng trực giác ngây thơ và chất phác, nó thiếu sự chứng minh bằng thành tựu phát triển của khoa học tự nhiên.
Từ nửa sau thế kỉ XV, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển thịnh vượng, đi sâu vào phân tích và nghiên cứu từng yếu tố riêng biệt của giới tự nhiên, dần dần dẫn đến sự ra đời của phương pháp siêu hình. Vào thế kỷ XVI, phương pháp siêu hình trở thành phương pháp thống trị trong tư tưởng triết học và nghiên cứu khoa học. tuy nhiên, khi khoa học tự nhiên chuyển từ nghiên cứu các đối tượng cụ thể sang nghiên cứu quá trình thống nhất của các đối tượng đó trong mối quan hệ thì phương pháp tư tưởng siêu hình không còn đầy đủ nữa mà phải chuyển sang một phương thức tư duy mới cao hơn tư tưởng biện chứng. . .
đặc điểm cơ bản của phép biện chứng cổ đại
– đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại là tính tự phát và hồn nhiên; đó mới chỉ là những quan điểm biện chứng suy diễn, phỏng đoán trên cơ sở kinh nghiệm trực quan nên chưa trở thành hệ thống lý luận nhận thức mà mới chỉ dừng lại ở việc mô tả phép biện chứng của thế giới.
– tuy có hạn chế nhưng phép biện chứng cũ đã coi thế giới là một thể thống nhất; giữa các bộ phận trên thế giới có mối quan hệ tác động qua lại, thâm nhập, ảnh hưởng và quy định lẫn nhau và đó là cơ sở cho sự phát triển của phép biện chứng.
các hình thức phát triển khác của phép biện chứng
Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức
– Triết học cổ điển Đức ra đời trong điều kiện lịch sử hết sức đặc biệt. Đức vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 vẫn còn là một nước rất lạc hậu về kinh tế và chính trị so với nhiều nước ở châu Âu như Anh và Pháp. nó cũng là một quốc gia phong kiến điển hình, với 360 tiểu vương quốc tự cung tự cấp trong một liên bang Đức chỉ là hình thức, lạc hậu về kinh tế và chính trị. thủ công, công nghiệp và nông nghiệp bị tê liệt.
– bắt đầu bằng kant và kết thúc bằng hegel. Theo Ph.Ăngghen: “Hình thức biện chứng thứ hai, hình thức quen thuộc nhất với các nhà khoa học Đức, là triết học cổ điển Đức, từ Kant đến Hegel.”
– Các nhà triết học cổ điển Đức đã trình bày những tư tưởng cơ bản nhất của phép biện chứng duy tâm một cách có hệ thống. chủ nghĩa duy tâm trong triết học Hegel thể hiện ở chỗ ông coi phép biện chứng là bước phát triển ban đầu của “ý niệm tuyệt đối”, coi phép biện chứng chủ quan là cơ sở của phép biện chứng khách quan. theo hegel, “ý niệm tuyệt đối” là điểm xuất phát của tồn tại, “tự xa lánh mình” trong giới tự nhiên và trở lại chính mình trong tồn tại tinh thần. “Tinh linh, suy nghĩ và ý tưởng đến trước, và thế giới thực chỉ là một bản sao của ý tưởng.” Các nhà triết học duy tâm Đức mà đỉnh cao là Hegel đã xây dựng nên phép biện chứng duy tâm với hệ thống các phạm trù, quy luật chung và lôgic chặt chẽ của ý thức và tinh thần. Lê-nin đã nói: “Hegel đã tài tình phân chia phép biện chứng của sự vật trong phép biện chứng của các khái niệm”. Ph.Ăngghen cũng nhấn mạnh tư tưởng của Marx: “Tính thần bí mà phép biện chứng có được trong tay Hegel không ngăn cản ông là người đầu tiên trình bày một cách toàn diện và có ý thức các hình thức vận động chung của phép biện chứng. trong hegel, phép biện chứng là ngược. chỉ cần xây dựng lại nó và bạn sẽ khám phá ra cốt lõi logic đằng sau lớp vỏ thần bí của nó. ”
– Chủ nghĩa duy tâm trong phép biện chứng cổ điển Đức, cũng như trong triết học Hegel, là một hạn chế cần phải khắc phục. Mác và Ph.Ăngghen đã khắc phục hạn chế đó để sáng tạo ra phép biện chứng duy vật. đó là giai đoạn phát triển cao nhất của phép biện chứng trong lịch sử triết học, là sự kế thừa cơ bản của phép biện chứng cổ điển Đức. Bản thân Engels đã nhận xét: “… có thể nói rằng hầu như chỉ có Marx và tôi là người đã lưu giữ phép biện chứng tự giác của triết học duy tâm Đức và đưa nó vào quan niệm duy vật về tự nhiên và lịch sử.”
phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lê-nin
– Cho rằng, thế giới vật chất tồn tại khách quan, các sự vật, hiện tượng luôn vận động và thay đổi, chuyển hóa lẫn nhau, cái cũ mất đi, cái mới nảy sinh. Vì các sự vật, hiện tượng trong thế giới luôn vận động và thay đổi thường xuyên nên tư tưởng của con người phải luôn tự đổi mới để theo kịp sự vận động và biến đổi đó, như Ph.Ăngghen đã viết trong tác phẩm Chống Đuyhring: “Phép biện chứng … là một khoa học về những quy luật vận động và phát triển phổ biến của tự nhiên, xã hội loài người và tư tưởng “,” là chìa khóa giúp trẻ em. Người nhận thức và chinh phục thế giới “. Vì vậy, khi xây dựng đường lối đổi mới, Đảng ta ngay từ đầu đã xác định phải đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ, dân quân trên cả hai phương diện tư tưởng; lý luận nhận thức; các cơ chế chính sách. phép biện chứng duy vật là công cụ hữu hiệu giúp Đảng ta giải quyết triệt để ba vấn đề lớn liên quan đến đường lối đổi mới từ năm 1986 đến nay.
Qua bài viết, thpt soc trang đã giúp các em học sinh làm rõ khái niệm phép biện chứng là gì, các hình thức phát triển của phép biện chứng, những đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cổ đại, v.v. các bạn học sinh có thể ghé thăm website soc trang để tìm hiểu nhiều bài viết bổ ích về quá trình học tập và ôn thi.
được đăng bởi: thpt luna sóc
danh mục: chung