Hỏi đáp

Tại Sao Việt Nam Phải Thực Hiện Chính Sách Kích Cầu Trong Giai Đoạn 2009

Bạn đang quan tâm đến Tại Sao Việt Nam Phải Thực Hiện Chính Sách Kích Cầu Trong Giai Đoạn 2009 phải không? Nào hãy cùng VCCIDATA đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy!

XEM VIDEO Tại Sao Việt Nam Phải Thực Hiện Chính Sách Kích Cầu Trong Giai Đoạn 2009 tại đây.

Ảnh minh họa.Bạn đang xem: Tại sao việt nam phải thực hiện chính sách kích cầu trong giai đoạn 2009Sự cần thiết của “Liệu pháp bàn tay nhà nước” trong khủng hoảng kinh tế

Mặc dầu trước đó nước Mỹ luôn đi đầu cổ súy cho tự do hóa thị trường và tư nhân hóa nền kinh tế, nhưng nay đã buộc phải áp dụng các biện pháp chống khủng hoảng khẩn cấp theo đúng nguyên lý “chủ động sử dụng bàn tay Nhà nước một cách tích cực” của Kinh tế chính trị học Mác-xít chính thống, tung ra liên tiếp các gói kích cầu trị giá gần 2.000 tỉ USD để quốc hữu hóa hoặc mua lại các khoản nợ xấu của các ngân hàng, các hãng bảo hiểm, tổ chức tài chính và tập đoàn công nghiệp lớn nhất thế giới đang và có nguy cơ phá sản…

Ngày càng nhiều nhà lãnh đạo các quốc gia phát triển trên thế giới dần tìm thấy tiếng nói chung, cùng nhấn mạnh giải pháp căn bản cho cuộc khủng hoảng hiện nay là phải “tìm ra được một sự cân bằng mới giữa vai trò của Nhà nước và thị trường”.

Bạn đang xem: Tại sao việt nam phải thực hiện chính sách kích cầu trong giai đoạn 2009

Tư duy mới về bàn tay của Nhà nước trong một thế giới đang biến đổi ngày càng đậm nét với các biểu hiện và yêu cầu chủ yếu sau:

Thứ nhất, phối hợp hài hòa sử dụng bàn tay Nhà nước và bàn tay Thị truờng trong một mô hình Nhà nước kiểu mới.

Trước cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu hiện nay, thế giới đang cần một hướng đi mới trong hành trình tìm kiếm vai trò, xác định liều lượng và các công cụ can thiệp của mô hình Nhà nước kiểu mới, mang tính đại diện cao hơn cho các lợi ích chung của nhân loại. Bàn tay điều chỉnh của nhà nước cần chuyển dịch theo hướng giảm can thiệp hành chính, trực tiếp, để chuyển sang phương thức can thiệp gián tiếp, có tính định hướng và giám sát nhiều hơn, vừa tuân thủ các yêu cầu và lợi ích thị trường, vừa không làm xấu đi sự ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm hài hòa các lợi ích trong quá trình phát triển, nhất là không lạm dụng sức chịu đựng và đổ gánh nặng khủng hoảng lên người dân, người tiêu dùng. Đồng thời đề cao vai trò của công tác thông tin, dự báo và giám sát, cảnh báo an toàn, nhất là an toàn hệ thống tài chính-ngân hàng bởi “Cần dập ngòi khủng hoảng từ khi nó còn nhen nhúm, thay vì khi nó đã thành đám cháy mạnh và lan rộng, thì chi phí là khó đo lường”.

Thế giới hiện đại và ngày càng “phẳng” hơn đang làm cho các nước xích lại gần nhau hơn bởi những quan tâm chung trong cuộc chiến với những vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống, cũng như bởi các tác động lan tỏa, dây chuyền có tính 2 mặt của các biến cố và chính sách kinh tế trên thị trường trong nước và quốc tế.

XEM THÊM:  Hình thức quan hệ liên kết là gì

Thứ ba, trọng tâm là giữ vững lòng tin cho khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính

Có lẽ chưa bao giờ yếu tố thông tin và lòng tin, nhất là trong khu vực kinh tế tư nhân và thị trường tài chính, lại có vai trò nhạy cảm và quan trọng như hiện nay, cả trong phát triển và quản lý khủng hoảng kinh tế. Cả trên cấp độ quốc gia và toàn cầu, vi mô vầ vĩ mô, khi tình trạng các thông tin bất đối xứng, bị hạn chế, chậm trễ, thiếu thốn và thiếu chính xác càng nặng nề và phổ biến, thì tình trạng khủng hoảng càng trầm trọng và kéo dài.

Lạm phát năm 2009 và tính 2 mặt của các “gói kích cầu”

Có thể nói, “kích cầu” về bản chất là việc chủ động sử dụng “Bàn tay Nhà nước” tác động tích cực tới tổng cung và tổng cầu xã hội một cách thống nhất, có tổ chức và có chủ đích.

Vũ khí chủ lực để kích cầu thường là các “gói kích cầu”, tức quỹ tài chính và hoạt động ngân sách nhà nước trực tiếp chi cho các hoạt động kích cầu đầu tư và tiêu dùng, chống suy giảm, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an sinh xã hội theo kế hoạch được các cấp có thẩm quyền định đoạt. Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu năm 2009, sự xuất hiện các “gói kích cầu” này là phổ biến cả ở các quốc gia, dù phát triển hay đang phát triển, lẫn ở các tổ chức khu vực và quốc tế như IMF, EU, ASEAN, với quy mô ngày càng tăng, từ hàng ngàn tỷ USD như ở Mỹ, hàng trăm tỷ USD như ở Nhật, Trung Quốc, Nga và các nước thành viên EU…

Ở Việt Nam, “gói kích cầu thứ nhất” trị giá 1 tỷ USD đã được Chính phủ quyết đoán thông qua và sớm được giải ngân nhanh chóng để hỗ trợ 4% lãi suất vay ngân hàng thương mại cho các khoản vay ngắn hạn dưới 1 năm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, có vốn Điều lệ dưới 10 tỷ đồng, sử dụng không quá 300 công nhân, không nợ đọng thuế và nợ tín dụng quá hạn … Tiếp đó, “gói kích cầu thứ hai” cũng đã được công bố với quy mô lớn hơn, cho vay dài hạn hơn (tới 2 năm), điều kiện nới lỏng hơn và lĩnh vực cho vay cũng mở rộng hơn…

Hỗ trợ trực tiếp lãi suất cho vay theo cơ chế xin-cho là đặc trưng cho phương thức kích cầu chủ yếu của Việt Nam (khác với Mỹ, Nhà nước chủ yếu dùng quỹ ngân sách để mua cổ phần và nợ xấu của các công ty, quản lý và phục hồi hoặc tái cơ cấu xong sẽ bán lại chúng trên thị trường , và cũng khác ở Trung Quốc, Nhà nước dùng NSNN chủ yếu trực tiếp chi cho các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia…).

XEM THÊM:  Tần suất viếng thăm khách hàng là gì

Cho đến hết tháng 7/2009, theo báo cáo sơ bộ trên toàn quốc đã có 350.000 tỷ đồng được giải ngân theo kênh của “2 gói kích cầu” và bước đầu đã có thể cảm nhận được một số tác động 2 mặt của chúng:

“Gói kích cầu” còn trực tiếp hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận được các nguồn vốn ngân hàng với chi phí rẻ hơn, từ đó góp phần giảm giá, tăng cạnh tranh và tăng tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, có thêm cơ hội giữ vững và mở rộng sản xuất, từ đó góp phần giảm bớt áp lực thất nghiệp và đảm bảo ổn định xã hội.

Đồng thời, “gói kích cầu” còn giúp các ngân hàng cải thiện hoạt động huy động và cho vay tín dụng do không phải hạ thấp lãi suất huy động, vừa mở rộng đầu ra nhờ không phải nâng lãi suất cho vay dễ làm thu hẹp cầu tín dụng trên thị trường. Sự ổn định và hoạt động lành mạnh của hệ thống ngân hàng trong khi gia tăng dòng tiền bơm vào thị trường là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và gia tăng các hoạt động đầu tư xã hội.

Ngoài ra, dòng vốn của “gói kích cầu” còn trực tiếp góp phần gia tăng các hoạt động đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo nền tảng và động lực của sự phát triển xã hội cả hiện tại, cũng như tương lai.

Mặt khác, bên cạnh những tác động tích cực trên, sự lạm dụng, thiếu kiểm soát và sử dụng không hiệu quả các “gói kích cầu” sẽ có thể gây ra một số hệ lụy tiêu cực nặng nề khó đo lường, như: Làm thất thoát, lãng phí các nguồn vốn vay, gia tăng gánh nặng nợ nần và các hiện tượng “đầu cơ nóng” với những hệ quả đắt đỏ đi kèm cho cả Chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng và xã hội nói chung khi các dự án vay đầu tư được lập ra có chất lượng thấp hoặc triển khai kém, giải ngân không đúng mục đích vay; Làm gia tăng các hiện tượng tham nhũng do sự bắt tay giữa các ngân hàng với các doanh nghiệp trong việc lập các dự án vay ảo để chiếm đoạt vốn hỗ trợ từ “gói kích cầu”, cũng như do các ngân hàng nhũng nhiễu doanh nghiệp để “ăn chia” phần vốn hỗ trợ trong khi thẩm định, cho vay vốn, làm tổn hại lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp; Làm tổn hại đến sức cạnh tranh của nền kinh tế do việc cho vay theo “gói kích cầu” thiên về quy mô và thành tích, tức góp phần níu kéo, duy trì cơ cấu kinh tế, cũng như cơ cấu sản phẩm và thị trường kinh doanh lạc hậu, kém hiệu quả; Làm gia tăng hoặc kéo dài tình trạng bất bình đẳng thị trường giữa các loại hình doanh nghiêp, khu vực kinh tế và các địa phương nếu không tuân thủ tốt các nguyên tắc minh bạch và bình đẳng trong triển khai các “gói kích cầu”; Đặc biệt, về trung hạn, tạo áp lực tái lạm phát cao trong tương lai nếu kéo dài quá lâu “liệu pháp kích cầu” và sử dụng không hiệu quả “gói kích cầu” khiến gia tăng tích tụ các mất cân đối hàng- tiền và vi phạm thô bạo, nghiêm trọng quy luật lưu thông tiền tệ…

XEM THÊM:  Cách làm quất ngâm mật ong chữa ho

Trong bối cảnh hiện nay, để thực hiện tốt nhiệm vụ mục tiêu mà Quốc hội và Chính phủ đã đặt ra trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009, các hoạt động quản lý nhà nước cần tiếp tục triển khai “kích cầu” có trọng tâm, trọng điểm, đề cao yêu cầu hiệu quả và bám sát hơn các nguyên tắc thị trường, giảm thiểu cơ chế xin-cho trong hoạt động kích cầu, nhất là thực hiện các nguyên tắc “kích cầu bằng các đồng tiền phi lạm phát” (không phát hành tiền khống để cho vay, không cho vay dễ dãi gây mất an toàn hệ thống do nợ xấu, không cho vay quá dàn trải hoặc quá tập trung, không định giá quá cao đồng nội tệ và cố định quá lâu tỷ giá bất chấp sự mất giá các đồng tiền thế giới có liên quan..). Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư, xúc tiến thương mại có tổ chức, có tính chuyên nghiệp cao, đi đôi với thúc đẩy các hoạt động tái cơ cấu nền kinh tế, doanh nghiệp, sản phẩm và thị trường, tập trung phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp chế biến và bảo quản sau thu hoạch, hỗ trợ làng nghề. Cải thiện môi trường đầu tư và chống tham nhũng cần được coi trọng và tiến hành triệt để, thực chất hơn. Đồng thời, cần coi trọng hơn công tác thông tin, giám sát từ xa, giám sát sau cho vay đầu tư và giám sát tổng thể bảo đảm an toàn hệ thống. Ngoài ra, các hoạt động thông tin, tuyên truyền và bảo đảm lòng tin của khu vực doanh nghiệp và ngân hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Xem thêm: Tại Sao Có Nốt Ruồi Trên Mặt, Nốt Ruồi Hình Thành Thế Nào Trên Cơ Thể Của Bạn

Những hoạt động bảo đảm an sinh xã hội cũng cần tiến hành hiệu quả với quy mô rộng rãi hơn trong thời gian tới.

Vậy là đến đây bài viết về Tại Sao Việt Nam Phải Thực Hiện Chính Sách Kích Cầu Trong Giai Đoạn 2009 đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website VCCIDATA.COM.VN

Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!

Related Articles

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button