Chức hội đồng ngày xưa là gì
Bạn đang quan tâm đến Chức hội đồng ngày xưa là gì phải không? Nào hãy cùng VCCIDATA đón xem bài viết này ngay sau đây nhé, vì nó vô cùng thú vị và hay đấy!
XEM VIDEO Chức hội đồng ngày xưa là gì tại đây.
Nơi tập trung từng được gọi là làng, còn gọi là Hu Weng, biên cương. Vì phải đăng ký tên làng nên người ta đổi tên đơn âm thành tên Hán Việt, nguyên tắc chung là giữ nguyên cách phát âm và ý nghĩa của tên gốc, dân làng không may gọi là làng thach cap thach son. . thach cap vừa là từ đồng âm vừa là sự gặp gỡ, nghĩa là cái mà các nhà sử học gọi là nơi giao thoa giữa nam bắc, một làng giữa văn hóa làng xã Việt Nam và văn hóa Diễn Hòa. Nơi đó ở phía tây bắc Yuesan, đã diễn ra nhiều trận đánh lớn vào thời nhà Lý, quét sạch tàn quân phía dưới Vân Nam.
Thông qua khảo cổ học, địa danh, tín ngưỡng và truyền thuyết, ngày nay chúng ta có thể suy ra tuổi của nhiều ngôi làng. Làng bao gồm các nhóm cư dân sống trên các sườn núi đối diện với đầm phá và lấy nước để trồng lúa. Do trồng lúa cố định nên người dân phải định cư ở nông thôn. Người nông dân Việt Nam đã làm nông từ hàng nghìn năm nay nên họ nhanh chóng định cư, sinh sống bình yên. Làng ban đầu được hình thành bởi một nhóm người có cùng tổ tiên, có lẽ trước tiên là theo dòng mẫu hệ (nữ quyền) và sau đó là dòng phụ hệ (phụ hệ). Những gia đình có 4 thế hệ chung sống gọi là Tứ đại cộng đồng hay Ngũ đại sảnh chung một nơi theo lối thờ cúng tổ tiên của 5 đời. Các làng được tạo thành từ một dòng họ thường được đặt tên theo họ của họ, chẳng hạn như làng Cao Xia (làng của họ Cao), làng Ding Xia (họ Đinh), sau đó là ngo xã, hoàng xã, đạo xã và phung xã.
Làng ngày càng lớn, nhiều họ cùng sinh sống. Làng là nơi định cư chính và là đơn vị kinh tế, văn hóa cơ bản của đất nước. Như có câu: Sống ở làng ngoại hay sống ở làng Sống trong nước Xem làng là quan trọng đối với mọi người. Người xưa coi thường những kẻ bỏ làng đi lang thang. Nếu ai đó bất mãn với gia đình hoặc có tội với làng, với nước mà phải rời bỏ làng thì họ phải đến sống ở một nơi nào đó. Cư dân bị cư dân coi thường. Họ bị dịch vụ quấy rối, họ đủ thứ khó khăn, nếu không muốn mất họ phải làm con nuôi cho nhà giàu ở quê mới. Ở nhiều làng, cư dân chỉ được phép sống bên ngoài lũy tre của làng, trong khu đất hoang hoặc trong rừng rậm. Sau ba đời, nếu có tiền mua ngôi mới thì được công nhận là cư dân chính trị, có tiếng nói trong làng. Sự khinh miệt của cư dân phần nào hạn chế sự bất mãn của nhiều người rời bỏ làng. Cũng chính nhờ những làng này mà đạo đức, tư cách và trách nhiệm với làng, với nước được sàng lọc và phát huy trong chính những người dân của họ.
Bạn đang xem: Chức hội đồng ngày xưa là gì
Ban đầu, triều đình sử dụng làng làm căn cứ để đóng quân và thu thuế. Khi tổ chức cấp xã được thành lập, xã là đơn vị hành chính thấp nhất của triều đình. Thường thì mỗi làng là một xã. Nhưng có khi hai ba làng được hợp nhất thành một xã do số đinh và số ruộng do triều đình quy định. Cũng có những làng rộng, dân đông, ruộng nhiều do bè đảng, dân chúng rủ nhau xây nhà công sản, đặt trụ sở, rồi xin chi bộ lập nghiệp. Vì vậy, nhiều làng có đến 3,4 xã. Khi một xã được thành lập nhiều làng thì gọi là làng (có nhiều làng trong một xã). Ngược lại, khi một làng có nhiều xã thì xã được gọi là làng (một làng có nhiều làng). Mỗi xã cũng được gọi là tất cả mọi người.
Đối với người Việt Nam, làng quan trọng hơn xã. Mọi thứ trong làng là của mình, chợ của mình, xã của mình, cộng đồng làng mình, các lễ hội của làng mình, mọi người đều thuộc về làng này: già làng, trai làng, gái làng. Dù bạn ở đâu, mọi người sẽ luôn nhớ về ngôi làng này. Vào đêm giao thừa gần đây, mọi người về quê làm lễ. Không thấy ai muốn đi làm xa, bỏ hội làng. Miền nào cũng có những câu hát, như ai đi đâu cũng nhớ về ngày mồng tám ở Chợ Trâu.
Việc quản lý làng dễ dàng hơn khi một xã có nhiều làng, vì có một bộ phận quản lý mọi thứ trong làng và một ủy ban quản lý dịch chịu trách nhiệm quản lý địa phương. Tuy nhiên, khi thôn có nhiều xã, hội đồng trưởng lão và thủ thư chỉ có quyền lực trong nhân dân của xã. Sau đó xã họp thôn, hiệp thương cử ra xã trưởng, người này phải là người có uy tín và trình độ. Thường là trưởng làng. Nếu bộ trưởng không thể, một vị tướng phải được bổ nhiệm. Ở một số làng, sư trụ trì chùa làng phụ trách làng. Nếu trong làng có người đỗ đạt, được trọng vọng, chúng tôi sẽ mời người ấy làm trưởng thôn.
Công việc nông thôn là quan trọng. Đó không chỉ là việc của riêng người già, đó là việc của tất cả mọi người. Người nghèo không có đủ tiền, họ gánh vác những công việc của làng bằng mồ hôi và công sức. Mọi người trong làng đều bình đẳng. Đặc biệt ở những làng lớn, một làng có hai hoặc ba xã, những nhân viên xã hội này không có quyền bắt nạt những người hàng xóm của các xã khác. Từ những nhà hảo tâm đến những người da đen, họ đều sống với làng, thờ thần đất, đắp tường bao hay chỉnh trang đường làng. Từ cán bộ đến nhân dân, từ giàu đến nghèo, chúng ta phải dựa vào nhau để ngăn chặn các vấn đề trước khi chúng xảy ra. Nếu bằng tuổi nhau thì học cùng một ban, gia đình làm cùng nghề thì ở cùng phường, học cùng thầy thì cùng học một ban. Ngõ và hội quán tổ chức các lễ hội dành riêng cho các vị thần và thánh. Mọi người đều tham gia vào công việc của làng nên tính cố kết của cộng đồng làng luôn được coi trọng. Khi thôn có nhu cầu xây dựng đình, miếu, trường học, mở chợ, xây cầu đường, thậm chí cần cấp trên hối lộ vì tranh chấp đất đai với các thôn khác, các già làng hoặc trưởng thôn mời ủy ban thôn họp để quyết định việc mua bán. và các khoản đóng góp. Làng xưa còn quá nhiều người nghèo nên đóng góp cho làng chủ yếu phụ thuộc vào người giàu. Nhưng để làm cho nhà giàu tự nguyện quyên góp tiền của cho làng xã, người xưa đã áp dụng phương pháp phản bội ngôi báu, đó là ngồi chễm chệ trong nhà công rộng hàng chục mẫu ruộng và hàng trăm cây vàng. Khi còn sống, người già ngồi chiếu nhiều nhất, sắm sửa nhiều nhất, bánh chưng thịt trong làng cũng được gánh về nhà. Bà cố mất, dân làng cũng vậy. Chính vì vậy mà các làng quê Việt Nam xưa thường có giỗ tổ. Tên làng thường được bán, và mỗi làng có tên riêng, chẳng hạn như ngai vàng, ngai vàng của triều đình, ngai vàng của Phó Liễn, ông chủ, thủ lĩnh, v.v. Căn nhà bạn mua có thể ngồi gặp gỡ mọi người và ăn uống với họ. So với trước kia, Lí Dương không có quyền lực nào để cai quản thiên hạ như sự thật Dịch. Vì họ tiêu rất nhiều tiền cho làng nên được dân làng kính trọng. Chỉ những người có chức vụ cao mới có quyền tranh giành chức tế lễ hoặc trực tiếp tham gia vào các cuộc tế lễ. Họ được miễn nghĩa vụ quân sự, không phải đi tuần tra làng mạc, không phải phục vụ yến tiệc của nhân dân. Kể từ khi mua được vị trí cao, mọi sự kiện trong làng như đám cưới, đám hỏi, ma chay đều được mời tham gia. Kiếm được danh tiếng cho họ bằng cách đóng góp số tiền lớn cho lợi ích công cộng. Rất khó để thông dịch viên quấy rối họ. Họ cũng không có nghĩa vụ phải báo cáo tình hình trong làng cho cấp trên. Nếu không có chồng, không có thuế và không có quan chức địa phương trong làng, họ thường kêu gọi thần tiên (hội đồng cộng đồng) để trừng phạt hoặc chôn một nửa thi thể của họ xuống đất. Vì vậy, trong số những người dân làng khó tính, thường không ai nhận tôi làm trưởng nhóm. Ông chủ đã trả tiền cho một tổ chức vừa uy tín vừa tiết kiệm tính mạng. Kể từ đó, mọi người nghĩ ra một cụm từ mới để cúi đầu.
Xem ngay: Tại Sao Ổ Đĩa C Có Màu Đỏ
Ở những làng có nhiều họ, để tranh chức phó chủ tịch (tương đương phó chủ tịch xã), người ta tranh nhau mua chức Trung thư xã hoặc chánh phó xã trước. Nếu anh ta muốn giành được quyền lực, anh ta phải đóng góp rất lớn cho làng. Không có cống hiến, không có thẩm quyền danh dự. Tiền mua nhà chỉ vì lợi ích công cộng. Không ai trong số các nhà hảo tâm được cho là đã lấy tiền của chùa để uống rượu. Khi mua được ngai vàng, người ta mổ bò, lợn, gà, mời dân làng đi thi. Ở nhiều ngôi làng lớn và giàu có, người ta thèm muốn những đồ trang trí đắt tiền. Việc trả món nợ khó đòi này khiến nhiều gia đình phá sản phải bỏ làng đi nơi khác sống tủi nhục.
Hầu hết các công việc trong làng đều diễn ra trong nhà công cộng đóng vai trò là trụ sở của làng. Xã còn là nơi chứa đựng nhiều giá trị văn hóa của làng và là nền tảng của văn hóa dân tộc – văn hóa Việt Nam.
Các hương ước, quy ước, hương ước của làng xã Việt Nam có quy định các tầng lớp nhân dân được ngồi đệm ở giữa nhà công vụ. Tầng lớp trung lưu dành cho sinh viên sau đại học hoặc sinh viên học đại học. Tiếp theo là địa vị cao, chỗ ngồi cao. Những người cùng địa vị, không phân biệt tuổi tác, được thể hiện ở góc trên cùng hoặc góc trên, như được triều đình tôn vinh và tôn trọng của làng. Những lãnh chúa phong kiến như vậy, ngoại trừ việc họ đôi khi được sử dụng bởi những tên bạo chúa quyền lực và độc ác để thao túng những người dân còn lại, ổn định trật tự làng xã, giảm tự do hỗn loạn và tôn trọng truyền thống của người xưa, và truyền thống kỷ luật sống nghiêm khắc được đề cao. Làng quê Việt Nam.
Những người có nhiều đóng góp cho làng có thể ăn trên bàn nhậu một thời, dù nửa trên chỉ là miếng mặt gà, mặt lợn. Các cuộc tụ họp ở xã mở hội làng đều thu công quỹ, thu tiền công đất, ao, hồ. Tất cả dân làng đều có thể tham gia lễ hội của làng. Bên trái giữa làng xã là ông già và chiếc đệm của ông già. Thời gian phải để lại cho những người cấp dưới, những người mua các cấp dưới từ chùm, và trưởng ngã. Có thời gian tòa án quy kết các cơ quan chức năng (như né phó chủ tịch xã) chỉ được ngồi đệm giữa của ô tô bên tay phải. Có lẽ vì vậy các tòa án muốn hạn chế sự hách dịch và tham nhũng của các nhà cầm quyền địa phương. Ngoài ra, những người da trắng nghèo không có tiền làm việc công phải đi hầu bàn và phục vụ nhân dân. Ăn tiệc làng, họ phải ngồi bàn dài ở sân đình làng, hãnh diện vì tiền của làng, xứng của mình. Chính vì vậy mới có người đánh cá ngoài làng với chiếc sàng bếp.
Ăn ở xã nghĩa là ăn thơm, ăn hoa, hưởng phúc thánh. Mọi người chỉ nhấm nháp một chút tượng trưng. Phần lớn thịt bàn và gạo nếp được chia đều cho mọi người mang về nhà cho vợ con ăn.
Những tấm chiếu trong nhà công vụ cũng được dành cho những người làm việc chăm chỉ vào làng. Khi làng bị thú dữ hoặc kẻ cướp tàn phá, làng kêu gọi ai giết được con thú và lấy được đầu của kẻ cướp, làng cũng sẽ giành được địa vị giống như những người trả tiền cho nó. Nếu người đó chết vì làng thì chức vụ đó sẽ được con cháu kế thừa.
Công việc của thôn không chỉ là công việc của tổ chức tự quản thôn, mà còn là công việc của xã (chính quyền). Các tổ chức cộng đồng tự trị bao gồm thành viên nhà thờ (họ mac), đồng hương (ngõ xóm), đồng nghiệp (phường nghề), giáo viên hợp tác (cùng lứa tuổi), và đối tượng hợp tác (cùng nghiên cứu). Tổ chức của xã gồm các chân dịch. Do xã phụ trách nam giới nên nam giới trong xã thường được chia thành 4 ranh giới, mỗi ranh giới có trách nhiệm sửa chữa nhỏ cho một góc xã và phân công nhau tổ chức lễ hội của làng mình. . năm.
Xem ngay: Cách nạp tiền google play
Cơ quan quyền lực cao nhất trong làng là Nhà thờ Trưởng lão. Ban quản lý làng, hội, biên giới đều do các bô lão quản lý. Phần biểu quyết bầu chọn người cấp phép (ủy ban cộng đồng). Các quan chức quận nên tịch thu con dấu của thị trưởng nếu ủy ban biển thủ hoặc bỏ phiếu loại bỏ ông ta. Các bô lão có quyền lực rất lớn trong làng, nhưng quan huyện khi về làng không phải báo cáo, cũng không phải trực tiếp ra tay với dân làng. Họ không có tiếng nói quốc gia và không ăn được gì của dân. Họ chỉ làm việc vì danh dự và có trách nhiệm với làng. Chính nhờ hình thức tổ chức tự quản này mà làng đã tích lũy được một kho tàng văn hóa của làng, được cô đọng thành những giá trị văn hóa truyền thống như tính đoàn kết cộng đồng, thứ bậc, đạo hiếu, chữ hiếu. Học hỏi, kính trọng người cao tuổi, uống nước nhớ nguồn, v.v.
Vào thời đại thịnh trị của vua chúa hiền lành, văn hóa nông thôn đề cao đạo đức xã hội từ nông thôn đến nông thôn. Chỉ khi triều đình thối nát thì dân làng mới bắt tay, nhũng nhiễu dân chúng.
Căn cứ vào năm mùa màng bội thu hay được mùa thái bình, các bô lão quyết định mở hội lớn hay nhỏ. Trong trường hợp có các hoạt động đình đám, Võ Nguyên Giáp sẽ tổ chức yến tiệc, tổ chức phát sách cúng tế và tổ chức lễ hội. Tổ chức cho quần chúng ăn uống trong xã. Nếu lễ hội được tổ chức tại đền, miếu của một hội, hội, thôn, ấp, bản hoặc ban đồng tế tư nhân thì các tổ chức này sẽ chịu trách nhiệm trực tiếp tổ chức.
Tổng thống và cụm cử tri được bầu bởi các thành viên đáng tin cậy. Phường thủ công thực chất là một hợp tác xã dịch vụ và bán thời gian trong làng.
Nghiên cứu các hội quán lâu đời ở Việt Nam, khó có thể thấy nạn tham nhũng, vì các hội trưởng được bầu ra bởi các thành viên thân tín. Họ đều là những người giàu có và có địa vị trong làng. Họ đã chi rất nhiều tiền cho làng và nhận được sự tôn trọng và kính nể của dân làng. Vậy nên, họ chẳng dại gì mà mua cái tên với giá 30 ngàn, 3 đồng mà bán. Mặt khác, hàng năm vào dịp lễ Thánh, chủ tịch phường và ông chủ đều tiến hành công khai tài chính trước mặt các thành viên. Vì tin tưởng vào tổ chức phường của mình nên mọi người đều hào hứng, hăng hái tham gia vào công việc của hội làng, gọi chung là việc làng.
Hiểu làng cũng là hiểu văn hóa làng. Vì làng là đơn vị cơ bản của nước. Vì vậy, văn hóa làng là văn hóa Việt Nam nhìn lên từ cơ sở cội nguồn.
Xem thêm: Tại sao không mở được internet explorer
Vậy là đến đây bài viết về Chức hội đồng ngày xưa là gì đã dừng lại rồi. Hy vọng bạn luôn theo dõi và đọc những bài viết hay của chúng tôi trên website VCCIDATA.COM.VN
Chúc các bạn luôn gặt hái nhiều thành công trong cuộc sống!